Viện nghiên cứu trung quốc -> Phương thức cấu tạo từ xưng hô gia đình trong tiếng Việt, tiếng Hán và sự khác nhau về văn hoá hai nước từ góc độ hai nước

Phương thức cấu tạo từ xưng hô gia đình trong tiếng Việt và tiếng Hán có sự khác nhau khá lớn. Từ xưng hô gia đình được phân làm hai loại chính: xưng hô đơn dùng xưng gọi riêng một hoặc nhiều thành viên trong gia đình như: ông, ông nội,v.v…, và xưng hô gộp hay còn gọi xưng hô kép gồm hai xưng hô đẳng lập trở lên, dùng để gọi chung nhiều thành viên như: ông bà, cô bác,v.v... Trong phạm vi bài viết, chúng tôi chủ yếu nghiên cứu phương thức cấu tạo từ xưng hô đơn.

Từ xưng hô trong tiếng Việt về cơ bản không phân biệt xưng hô văn phong và xưng hô khẩu ngữ, chủ yếu là xưng hô đơn âm tiết, đặc biệt trong cách dùng “xưng” và “gọi” thường dùng đơn âm tiết, trường hợp tha xưng hoặc trường hợp cần giải thích rõ về giới tính, nội ngoại, huyết thống, thân sơ, bàng hệ, người Việt mới thêm các từ tố phân biệt giới tính, nội ngoại, huyết thống, thân sơ, cấu tạo nên từ xưng hô chính phụ, trung tâm đứng trước yếu tố phụ đứng sau và chỉ có những từ không phân biệt giới tính, nội ngoại, thân sơ mới có chức năng này. Nhưng trong tiếng Hán hiện đại, từ xưng hô gia đình có xu hướng chủ yếu song âm tiết, phân biệt rõ xưng hô văn phong và xưng hô khẩu ngữ, phân biệt rõ giới tính, nội ngoại, tông tộc, thân sơ, huyết thống. Ở đây, chúng tôi chỉ so sánh cấu tạo từ xưng hô gia đình trong tiếng Việt và xưng hô văn phong trong tiếng Hán, qua đó thấy được sự khác nhau giữa hai nền văn hóa Việt và Hán.

Xưng hô văn phong trong tiếng Hán thường được cấu tạo từ hai âm tiết trở lên. Cách cấu tạo từ chủ yếu dựa vào xưng hô gốc (từ căn), kết hợp với các từ tố xưng hô khác, mở rộng về trái hoặc về phải để cấu tạo nên từ. Thông thường, cấu tạo về bên trái để biểu thị giới tính, cấu tạo về phía phải để phân biệt tông tộc, nội ngoại, thân sơ, huyết thống. Khác với tiếng Việt, những từ xưng hô gốc vốn mang ý nghĩa phân biệt giới tính, nội ngoại, thân sơ, huyết thống không kết hợp được với các từ tố phân biệt giới tính, nội ngoại, thân sơ huyết thống, nhưng trong tiếng Hán, những từ xưng hô gốc này lại vẫn kết hợp với những từ tố trên tạo nên từ xưng hô. Mặt khác, những từ xưng hô gốc trong tiếng Việt đồng thời là các từ xưng hô; những từ xưng hô chính phụ đối xứng nhau về giới tính, nội ngoại. Cách cấu tạo của các từ xưng hô nữ giới và xưng hô bên ngoại không lấy các từ xưng hô gốc nam giới và xưng hô bên nội để phát triển thành từ xưng hô. Trong khi đó, những từ xưng hô trong tiếng Hán hiện đại không đứng độc lập được mà phải kết hợp với các từ xưng hô khác. Phương thức cấu tạo từ chủ yếu lấy các từ xưng hô gốc nam giới và xưng hô bên nội làm gốc, kết hợp với các từ tố phân biệt giới tính, nội ngoại, tông tộc, huyết thống, thân sơ, mở rộng sang phải và trái. Hai cách cấu tạo từ này phản ánh sự khác biệt về văn hóa, xã hội của hai nước Việt Nam và Trung Quốc.

1. Phương thức cấu tạo từ xưng hô trong tiếng Việt và tiêng Hán

1.1. Phương thức cấu tạo từ xưng hô trong tiếng Việt

Số lượng từ xưng hô tiếng Việt khá ít, biến thể ít, một từ xưng hô có thể xưng gọi nhiều thành viên trong gia đình. Theo Hoàng Anh Thi, xưng hô gia đình gồm 26 từ xưng hô cơ bản, còn theo Trương Thị Diễm thì có 25 từ xưng hô cơ bản (không có từ xưng hô “chít”).(1)

Khảo sát 26 từ xưng hô gốc cho thấy, chúng đều có thể đứng độc lập thành từ xưng hô, nhất là trong trường hợp “xưng” và “gọi”. Trong trường hợp tha xưng hoặc cần giải thích, những từ xưng hô này có thể chia làm hai loại chính: Những từ xưng hô vốn mang ý nghĩa phân biệt giới tính, nội ngoại, thân sơ, huyết thống, thường không kết hợp được với những từ tố chỉ giới tính, nội ngoại, thân sơ, huyết thống như: ông, bà, trai, gái, dâu, rể, nội, ngoại, ruột, họ… Ví dụ, chúng ta không thể nói “chú trai, chú nội, cậu ngoại, bố họ, con họ, ông trai, bà gái… Những từ xưng hô gốc này luôn ở dạng đơn âm tiết, không có khả năng cấu thành từ xưng hô chính phụ. Những từ không mang ý nghĩa phân biệt giới tính, nội ngoại, thân sơ, huyết thống, có thể kết hợp được với các yếu tố trên(2), tạo thành các từ xưng hô chính phụ, trung tâm đứng trước, thành tố phụ đứng sau.

Xét về góc độ giới tính, 26 từ xưng hô gốc này có 17 từ xưng hô phân biệt giới tính và 9 từ không phân biệt giới tính. Những từ phân biệt giới tính không kết hợp được với các từ phân biệt giới tính. Những từ không phân biệt giới tính có thể kết hợp với 6 từ tố (ông, bà, trai, gái, dâu, rể) dùng để phân biệt giới tính. Trong đó, “ông”, “bà” chỉ kết hợp được với hai từ “cụ, kỵ” để phân biệt giới tính. “Trai, gái, dâu, rể” ngoài chức năng phân biệt giới tính, còn có chức năng phân biệt huyết thống và phi huyết thống; “trai, gái” biểu thị huyết thống, “dâu, rể” biểu thị hôn nhân.

Trong 17 từ xưng hô phân biệt giới tính, ngoài hai từ “anh, chị” ra, 13 từ còn lại không kết hợp được với các từ phân biệt giới tính, đó là “ông, bà, cha, mẹ, chú, cô, cậu, dì, thím, mợ, dượng, dâu, rể, vợ, chồng”. Trong số đó, một số từ kết hợp được, nhưng ngữ nghĩa thay đổi, như: chú rể, cô dâu, cô gái… Sở dĩ hai từ “anh, chị” có thể kết hợp được với các từ “trai, gái, dâu, rể”, tạo thành “anh trai, chị gái, anh rể, chị dâu”, không phải để phân biệt giới tính, mà để phân biệt thân sơ, huyết thống. Riêng hai từ “thím, mợ” khi dùng làm tha xưng cũng có thể kết hợp với “dâu”, thành “mợ dâu, thím dâu” để nhấn mạnh đây là xưng hô do hôn nhân đem lại.

9 từ xưng hô còn lại không phân biệt giới: “kỵ, cụ, bác, con, em, cháu, chắt, chút, chít”(3), trong đó “kỵ, cụ” chỉ kết hợp với hai từ “ông, bà”, 7 từ còn lại kết hợp với “trai, gái, dâu, rể” tạo nên các từ xưng hô đối xứng nhau về giới tính, vừa phân biệt huyết thống:

“Kỵ ông - kỵ bà; cụ ông - cụ bà (không có “cụ trai, cụ gái, kỵ dâu, kỵ rể…”).

“Bác trai - bác gái; bác dâu - bác rể; con trai - con gái; con dâu - con rể; em trai - em gái; em dâu - em rể; cháu trai - cháu gái; cháu dâu - cháu rể; chắt trai - chắt gái, chắt dâu - chắt rể; chút trai - chút gái; chút dâu - chút rể; chít trai - chít gái; chít dâu - chít rể”.

Về góc độ phân biệt nội ngoại, 26 từ xưng hô này, có 18 từ không kết hợp được với hai từ “nội, ngoại” vì bản thân những từ này hoặc có sự phân biệt nội ngoại như “chú, cô, cậu, thím, mợ, dì, dượng”, hoặc chỉ quan hệ hạt nhân như “cha, mẹ, con, anh, chị, em”, hoặc chỉ quan hệ hôn nhân như “dâu, rể, vợ, chồng”. Riêng từ “bác” tương đối đặc biệt, không có sự phân biệt nội ngoại, nhưng lại không kết hợp được với hai từ “nội, ngoại”. Từ “bác” là từ được mượn từ tiếng Hán chỉ người anh của bố, mang ý nghĩa nam giới, xưng hô bên nội, tông tộc, huyết thống, bề trên, bàng hệ. Khi được mượn sang tiếng Việt, do ảnh hưởng văn hóa Việt không có sự phân biệt rõ ràng về giới tính, nội ngoại, nên từ “bác” mất đi ý nghĩa nam giới, xưng hô bên nội, tông tộc, nhưng vẫn không kết hợp được với hai từ phân biệt nội ngoại này giống như từ “chú”.

8 từ không có sự phân biệt nội ngoại: cụ, kỵ, ông, bà, cháu, chắt, chút, chít, có thể kết hợp với các từ “nội, ngoại” tạo nên sự đối xứng trong xưng hô nội ngoại: “Kỵ nội - kỵ ngoại; cụ nội - cụ ngoại; ông nội - ông ngoại; bà nội - bà ngoại; cháu nội - cháu ngoại; chắt nội - chắt ngoại; chút nội - chút ngoại; chít nội - chít ngoại”.

Để phân biệt thân sơ, người Việt còn dùng hai từ “ruột, họ” để phân biệt, ngoài những từ xưng hô “thân” nhất như “cha, mẹ, con” và nhưng từ mang nghĩa gốc “sơ” chỉ quan hệ hôn nhân như “thím, mợ, dượng, dâu, rể”, không kết hợp được với hai từ này, những từ xưng hô khác đều có thể dùng hai từ này để phân biệt thân sơ, so sánh: “chú ruột - chú họ; bác ruột - bác họ, cháu ruột - cháu họ…”.

Tất cả những từ xưng hô gốc (từ căn) trong tiếng Việt đều có thể đứng độc lập cấu tạo nên từ xưng hô, xưng hô nam giới và nữ giới không phụ thuộc nhau, bình đẳng. Hơn nữa, ngoài những từ xưng hô độc lập, những từ xưng hô tha xưng, tỷ lệ xưng nam nữ, nội ngoại cũng luôn cân bằng, đối xưng nhau, thể hiện sự bình đẳng nam nữ, bình đẳng trong quan hệ nội ngoại.

1.2. Phương thức cấu tạo từ xưng hô trong tiếng Hán

Xưng hô gia đình trong tiếng Hán số lượng nhiều, biến thể nhiều. Theo Hồ Sĩ Vân khảo sát hơn 1900 từ xưng hô, khoảng 90% là xưng hô chính phụ(4). Khác với tiếng Việt, hơn 1900 từ xưng hô này đều có sự phân biệt rõ ràng về giới tính, nội ngoại và tông tộc.

Theo khảo sát của chúng tôi, xưng hô chính phụ được cấu tạo từ xưng hô gốc, mở rộng bên phải phân biệt giới tính, mở rộng sang bên trái để phân biệt nội ngoại, thân sơ, tông tộc.

Khác với tiếng Việt, bản thân những từ xưng hô gốc trong tiếng Hán đều có phân biệt nam nữ, nội ngoại, tông tộc. Trong 22 từ xưng hô gốc gồm có 祖(tổ), 孙 (tôn), 父 (phụ), 子 (tử), 母 (mẫu), 女 (nữ), 兄 (huynh), 弟 (đệ), 姐 (thư), 妹 (muội), 伯 (bá), 叔 (thúc), 姑 (cô), 舅 (cữu: cậu), 姨 (di: dì), 侄 (điệt: cháu), 甥 (sanh: cháu ngoại), 夫 (phu), 妻 (thê), 嫂 (tẩu: chị dâu), 岳(nhạc), 婿 (tế: rể)(5), trong đó giới tính có 13 từ chỉ nam giới (tổ, tôn, phụ, huynh, đệ, bá, thúc, cữu, điệt, sanh, phu), 8 từ chỉ nữ giới (mẫu, nữ, thư, muội, cô, di, thê, tẩu), 1 từ không phân biệt giới tính (nhạc); nội ngoại có 3 từ bên ngoại (mẫu, cữu, di), 4 từ chỉ hôn nhân (phu, thê, nhạc, tế) không có sự phân biệt nội ngoại, còn lại xưng hô bên nội; tông tộc có 9 từ nội tộc, 13 từ ngoại tộc, có sự mất cân đối nghiêm trọng giữa nam và nữ, giữa nội và ngoại. Nhưng chúng không đứng độc lập mà kết hợp với những từ chỉ giới tính, nội ngoại, bàng hệ, câu tạo nên từ xưng hô.

Về góc độ giới tính, đa số các từ xưng hô huyết thống được cấu tạo bằng cách lấy từ xưng hô gốc nam giới rồi mở rộng sang bên phải tạo nên từ xưng hô nam giới và nữ giới. Đây là sự biểu hiện trọng nam khinh nữ, lấy nam giới làm trung tâm. Sự phát triển các từ xưng hô theo quá trình sau:

Xưng hô gốc nam giới → xưng hô nam giới → xưng hô nữ giới

Ví dụ: Tổ → tổ phụ → tổ mẫu

Kết cấu của nó thường là:

Từ gốc mang ý nghĩa nam giới + từ chỉ giới tính nam hoặc nữ

Thông thường tham gia công thức trên gồm có các xưng hô bề trên và xưng hô bề dưới, xưng hô bên nội, so sánh:

祖父 (tổ phụ: ông nội) - 祖母 (tổ mẫu: bà nội); 曾祖父 (tằng tổ phụ: cụ ông nội) - 曾祖母 (tằng tổ mẫu: cụ bà nội); 高祖父 (cao tổ phụ: kỵ ông nội) - 高祖母 (cao tổ mẫu: kỵ bà nội); 伯父 (bá phụ: anh của cha) - 伯母 (bá mẫu: vợ anh trai của cha); 叔父 (thúc phụ: em trai của cha) - 叔母 (thúc mủ: vợ em trai của cha); 舅父 (cữu phụ: anh, em trai của mẹ) - 舅母 (cữu mẫu: vợ anh em trai của mẹ); 孙子(tôn tử: cháu trai nội) - 孙女 (tôn nữ: cháu gái nội); 侄子 (điệt tử: cháu trai con của anh, em trai) - 侄女 (điệt nữ: cháu gái con của anh, em trai)…

Tất cả các xưng hô chính phụ trong tiếng Hán có thể nhận biết bằng một số dấu hiệu sau:

Thứ nhất, hầu hết các xưng hô nữ, được cấu tạo từ bộ thủ 女 (nữ), hoặc từ tố nữ như: 嫂子 (tẩu tử: chị dâu), 姐姐 (thư thư: chị gái), 妹妹 (muội muội: em gái), 孙女 (tôn nữ: cháu gái), 侄女 (điệt nữ: cháu gái), v.v…, nhưng xưng hô nam giới lại không được cấu tạo bởi bộ “nam” hoặc từ tố “nam”, ví dụ: 兄 (huynh: anh trai), 哥哥 (ca ca: anh trai), 弟弟 (đệ đệ: em trai), 孙子 (tôn tử: cháu trai), 侄子 (điệt tử: cháu gái)(6).

Thứ hai, về ngữ nghĩa, chúng ta có thể căn cứ vào từ tố cuối cùng để xác định nam hay nữ. Xưng hô bề trên với nam giới, hậu tiết tố là “phụ”, xưng hô bề trên nữ giới hậu tiết tố là “mẫu”, xưng hô ngang bậc thường căn cứ vào từ xưng hô gốc (khẩu ngữ thường ở dạng lặp) như huynh, ca, đệ, thư, muội. Xưng hô bề dưới, xưng hô nam giới bên nội thường được kết cấu bằng từ tố “tử” như “tôn tử, điệt tử”, xưng hô nữ giới bề dưới bên nội thường kết hợp với từ tố “nữ”, như “tôn nữ, điệt nữ”. Chỉ có một bộ phận nhỏ xưng hô gốc nữ giới được cấu tạo từ chính xưng hô gốc, đó là “mẫu”, “tẩu”, “thư”, “muội”, “nữ”, “cô”, “di”, thành các xưng hô chỉ nữ giới là “mẫu thân”, “tẩu tử” (chị dâu), “muội muội”, “nữ tử” , “cô mẫu’, “di mẫu” và 5 từ gốc “thư”, “muội”, “nữ”, “cô”, “di” làm từ căn cấu tạo nên 5 từ xưng hô nam giới do quan hệ hôn nhân mang lại và không cấu tạo nên được những từ xưng nam giới huyết thống. Đây là dấu tích coi trọng huyết thống hơn phi huyết thống. So sánh sự phát triển xưng hô:

Di→ di mẫu→ di phụ; cô → cô mẫu → cô phụ; thư → thư thư → thư phụ; muội → muội muội → thư muội; nữ → nữ tử → nữ tế (chồng con gái).

Như vậy, đại đa số các từ xưng hô trong tiếng Hán được cấu tạo, phát triển xuất phát từ xưng hô gốc nam giới, phản ánh tư tưởng lấy nam giới làm trung tâm, nữ giới phụ thuộc vào nam giới, thể hiện sự bất bình đẳng trong gia đình, đồng thời cũng cho thấy tư tưởng trọng huyết thống hơn phi huyết thống của người Trung Quốc.

Về sự phân biệt nội ngoại, cấu tạo từ xưng hô tiếng Hán theo phương thức nhị phân, phân thành nội tộc và ngoại tộc, nội tộc thân hơn ngoại tộc. Những người thân trong gia đình có cùng họ gọi là nội tộc, còn họ hàng bên ngoại và họ hàng bên nội không cùng họ đều gọi là ngoại tộc. Về cách cấu tạo từ, xưng hô nội tộc được cấu tạo từ xưng hô gốc nội tộc. Đại đa số các từ xưng hô ngoại tộc được được cấu tạo từ xưng hô nội tộc kết hợp với các từ tố ngoại tộc như “ngoại” (bên ngoài), “biểu” (bề ngoài). Ngược lại, những từ xưng hô ngoại tộc không có chức năng cấu tạo nên từ xưng hô nội tộc.

Link nội dung: https://caolonthongminh.vn/than-mau-hay-mau-than-a17785.html