Hệ thống đê điều từ thời Trần đã góp phần kiến tạo nên đồng bằng sông Hồng như ngày nay ta thấy; đồng thời nó cũng kiến tạo nên nền văn minh lúa nước, văn minh sông Hồng thời độc lập tự chủ. Đê không chỉ là công trình trị thủy, mà còn định hình tổ chức xã hội ở châu thổ, và cuối cùng trở thành một biểu tượng văn hóa.

Đê - chiến lược bảo vệ đồng bằng trước sự bất định của tự nhiên
Địa hình sông Hồng đã đặt ra bài toán sống còn: phù sa bồi đắp, lũ lụt định kỳ, và vùng trũng rộng lớn. Hàng thiên niên kỷ tiến thoái của của biển và mạng lưới sông ngòi dày đặc khiến cư dân phải thích nghi bằng kĩ thuật đắp đê1. Công trình có chức năng phòng chống lũ lụt không quá phức tạp về kĩ thuật, nhưng giúp cư dân đồng bằng sông Hồng vượt qua được thử thách bất tận của tự nhiên. Từ việc trị thủy, nắn dòng, ngăn lũ, điều phối nước, người Việt đã thể hiện sức bền dẻo dai qua nhiều thế hệ, nhằm chinh phục thiên nhiên, cải tạo thủy văn, và kiến tạo nên đồng bằng châu thổ, đồng thời cũng tạo nên văn minh sông Hồng - văn minh Đại Việt2.
Vịnh Hà Nội, hay miền võng Hà Nội, vốn là một vùng trũng kiến tạo quan trọng nằm trên hệ thống đứt gãy cổ. Máng võng này có dạng bậc thang: cao ở Tây Bắc, thấp dần về Đông Nam, và trong suốt hàng chục triệu năm đã liên tục được bồi đắp bởi các đợt biển tiến - biển thoái. Cho đến khoảng 4000 năm trước, biển dâng cao lên đến 3,5m so với ngày nay, rồi lại rút xuống trong khoảng 1000 năm sau đó. Khi biển lùi, hệ thống sông Hồng - sông Thao đẩy mạnh bồi tích, vụng Hà Nội dần nổi lên thành đầm phá với hệ sinh thái ngập nước xen rừng rậm. Lưu tích là những dải than bùn dày hàng mét dưới lòng đất châu thổ sông Hồng. Đến lúc này, sông Hồng tiếp tục bồi đắp phù sa để hoàn thiện nốt giai đoạn thành tạo đồng bằng châu thổ.
Quá trình biến đổi từ vịnh biển (tính bằng triệu năm), đầm phá (tính bằng vạn năm), và rừng rậm đầm lầy (tính bằng ngàn năm TCN) là ba giai đoạn lớn của việc hình thành địa chất vùng tam giác châu thổ Bắc Bộ3. Tam giác châu ấy có đỉnh là Việt Trì - điểm hợp lưu của sông Hồng- sông Đà- sông Lô và hai cạnh đáy là Hà Nam (Quảng Ninh) với hệ thống mạch máu sông Cà Lồ- sông Đuống- Bạch Đằng và dãy Tam Điệp với mạch sông Đáy tuông ra cửa Đáy. Với dòng chảy 137 tỉ m3 một năm, hệ thống sông Hồng- sông Thái Bình- sông Đáy tạo thành mạng lưới sông ngòi chằng chịt và mênh mông, nằm giữa các cù lao phù sa đang tiếp tục được bồi lấp. Trong chặng cuối cùng của sự thành tạo này, con người đã góp phần tạo nên địa mạo và cảnh quan mới với kĩ thuật đắp đê.
Việc đắp đê đã trở thành dấu mốc quan trọng ảnh hưởng đến tiến trình lịch sử và văn hóa Việt Nam. Đê tạo nên làng nên mạc, đê tạo nên các tuyến giao thông, đê giúp con người khai hoang lập ấp, đê tạo nên một nền văn minh nông nghiệp của kỉ nguyên Đại Việt, và đê góp phần tạo nên dáng hình đất nước!
Việc đắp đê đã trở thành dấu mốc quan trọng ảnh hưởng đến tiến trình lịch sử và văn hóa Việt Nam. Đê tạo nên làng nên mạc, đê tạo nên các tuyến giao thông (đường đê và đò ngang đò dọc), đê giúp con người khai hoang lập ấp, đê tạo nên một nền văn minh nông nghiệp của kỉ nguyên Đại Việt, và đê góp phần tạo nên dáng hình đất nước!
Đê - nền tảng tổ chức xã hội và quốc gia
Khi lũ lụt là hiểm họa thường xuyên, cộng đồng không thể dựa vào nỗ lực lẻ tẻ. Đắp đê chuyển từ hành vi tự phát của làng, gia đình sang dự án tập thể - đòi hỏi phân công, quy chế, và quản lý chung. Chính bước chuyển này - từ ứng phó quy mô đơn lẻ, cá nhân sang quản trị công - là khởi điểm của văn minh đê điều.
Các khảo cổ và sử liệu cho thấy một điểm nhất quán: trong dòng chảy sông Hồng, thành và đê không tách rời nhau. Các di tích như Cổ Loa (ba vòng thành), La Thành của Đại La, và các vòng đê - thành của Thăng Long cho thấy: đắp thành và đắp đê là cùng một kỹ thuật - vừa chống lũ lụt, vừa phòng thủ, vừa định hình không gian cư trú, vừa kiểm soát dòng người và dòng thương phẩm.
Khi đê là thành, khi thành là đê: Đê trong không gian đô thị cổ Cổ Loa - La Thành - Thăng Long
Các sử liệu sớm về đê điều cho thấy việc đắp đê ban đầu chủ yếu được thực hiện ở các khu vực là lị sở hành chính của vùng đồng bằng sông Hồng. Sự kiện sớm nhất được ghi nhận là đắp đê ở thế kỷ 3 - 2 TCN ở khu vực Đông Anh4. Ba vòng thành Cổ Loa chính là ba “vòng đê nhân tạo” đắp theo địa thế, vừa ngăn lụt, vừa bảo vệ cư dân và trung tâm chính trị. Các hệ hào nối thông với nhau, chân thành gia cố bằng gỗ - tre - đá, mặt thành rải gốm… đều cho thấy trị thủy và quân sự dùng chung một kiểu kĩ thuật. Cổ Loa nằm giữa một “tứ giác nước”: sông Hồng - sông Cầu - sông Cà Lồ - sông Đuống. Vì vậy, đê - thành - hào tạo thành một tổng thể liên hoàn: vừa là hệ phòng thủ, vừa là cách con người cư trú trong vùng đất luôn bị nước bủa vây.
Sang thế kỷ 9, Cao Biền đắp La Thành (sau này là Đại La), ta có thể xác nhận rằng đây cũng là việc đắp đê xây thành nhằm tạo dựng không gian sinh trú và phòng thủ của An Nam Đô hộ phủ thời Đường. Dù sử sách mô tả đây là thành, toàn bộ cấu trúc thực chất là “đê đô thị”: vừa định hình không gian cư trú, vừa chống lũ, vừa phòng thủ, vừa là không gian giao thương lớn nhất của vùng đồng bằng. Năm 806, An Nam La Thành được xây dựng, và đến năm 866 được Cao Biền tu sửa thành Đại La Thành. Đại Việt sử kí toàn thư ghi: chu vi của La Thành 2115 trượng (6979,5 m), thân đê cao 1.5 trượng (4,95m), chân rộng 2 trượng (6,6m). Sử không nói rõ đây là vòng thành nào, nếu so với Cổ Loa, và khảo sát trên thực địa, thì vòng thành được ghi lại số liệu trên có khả năng là vòng thành trong cùng. La Thành khởi từ khu Ô Cầu Giấy, qua Đê La Thành - Xã Đàn - Kim Liên - Đại Cồ Việt - Lương Yên, rồi nối vào đê sông Hồng ở Bạch Đằng (Hai Bà Trưng). Từ đây, đê vòng lên Phúc Tân - Phúc Xá, men theo cửa sông Tô Lịch cổ đến đền Tô Lịch (Bạch Mã), rồi qua Quán Thánh - Hoàng Hoa Thám - Bưởi để khép lại ở Cầu Giấy.
Toàn bộ tuyến đê này che chắn mặt Đông và Bắc, ngăn sông Hồng với Hồ Tây và vòng đê thứ hai của thành Thăng Long ở trong. Kéo dài tới đê Âu Cơ - Lạc Long Quân - Xuân La - Bưởi, La Thành ngoài cùng bao bọc một vùng rộng lớn: Hoàng thành, hyồ Tây- hồ Trúc Bạch- hồ Cổ Ngựa, khu Thập Tam Trại5. Kể cả Đàn Nam Giao vẫn nằm trong khu vực bảo vệ. Với các cứ liệu đã nêu, La Thành vừa là tường thành (bằng đất) vừa chính là đê. Nó vừa có chức năng chống lũ lụt, che chở cho khu dân cư ngoại thành, vừa là kiến trúc phòng thủ.
Từ Cổ Loa đến Thăng Long, đê và thành không tách rời. Đắp đê để chống lũ cũng chính là định hình thành lũy, không gian cư trú và trung tâm quyền lực. Trị thủy và phòng thủ đô thị về bản chất là một kỹ thuật - một tư duy - một cấu trúc.
Hoàng thành: Lớp “đê - thành” thứ hai của Thăng Long
Vòng thành thứ hai là Hoàng thành được thể hiện khá rõ trong bản đồ thời Hồng Đức. Lúc này Hoàng thành trùng một phần với La Thành ngoài được đắp vào thời Lý, đó là đoạn đê sông Hồng đi từ Bạch Đằng thẳng lên đến Âu Cơ, rẽ xuống Lạc Long Quân rồi nối với đê Bưởi - Cầu Giấy. Tức là La Thành ngoài từ đời Lý về sau đã bọc toàn bộ hồ Tây - hồ Trúc Bạch ở phía trong - biến khu vực này thành “hồ nội thành”.
Phần đê có thể đắp sau thế kỷ 10, khi sông Hồng đã đổi dòng, và để lại Hồ Tây cong cong khúc cũ. Còn phần đê phía Bắc của La Thành thế kỷ 9 đã được sử dụng làm Hoàng thành. Đắp thành là đắp đê, thành Thăng Long được đắp liên tục trong các năm 1010, 1014, 1024, 1028, 1078, 1107, 11566. Trên bản đồ Thăng Long thời Hồng Đức, ta thấy hai lớp đê bọc phía Nam hồ Tây là đê Hoàng Hoa Thám và đê Thụy Khuê. Tiếp đó, đê Bưởi - Cầu Giấy - Bảo Khánh (khu vườn thú Hà Nội) - Giảng Võ- Nguyễn Thái Học (Cửa Nam) - Cửa Đông tạo thành một vòng khép kín. Vòng thành thứ hai trùng với La Thành cổ thời Đường ở mạn Bắc, mạn Tây và một phần phía Tây- Nam, đắp và xây mới ở mặt Nam (từ Giảng Võ đến Cửa Nam và Cửa Đông). Toàn bộ Hoàng thành lấy các con sông tự nhiên và sông đào làm hào, đúng như lời ca dao: Nhị Hà quanh bắc sang đông, Kim Ngưu - Tô Lịch là sông bên này. Cuối cùng, vòng ba Cấm thành Thăng Long đặt phía trong, được xây bằng gạch, và có hệ thống thủy văn xen kẽ, đặc biệt có sông Ngọc Hà rẽ từ sông Tô Lịch (ở mạn Bách Thảo) tạo thành hào nước tự nhiên bao quanh tường thành phía Tây, rồi chảy xuôi về phía Nam và hòa vào Thái Hồ.
Từ kỹ thuật đắp đê - thành ở Cổ Loa và Thăng Long, sang thời Trần, kỹ thuật ấy được mở rộng thành những hệ thống quy mô toàn vùng. Tiêu biểu nhất là mô hình đê quai vạc7 (đỉnh nhĩ đê) - loại đê đắp vòng sau lưng đê chính để chặn nước tràn khi đê bị vỡ, một sáng tạo rất đặc thù của Đại Việt.
Đê - dự án quan trọng nhất của quốc gia
Với sử liệu về việc đắp đê quai vạc năm 1248 dưới thời Trần ghi lệnh đắp đê quai vạc “từ đầu nguồn đến bờ biển”, cho thấy đê đã trở thành quyết sách quốc gia, không còn là hoạt động tự phát. Đây là một đại dự án về thủy lợi của triều Trần. Dự án này triển khai trên toàn vương quốc, từ thượng nguồn cho đến hạ lưu. “Đặt hà đê Chánh phó sứ để quản đốc. Chỗ đắp thì đo xem mất bao nhiêu ruộng đất của dân, theo giá trả lại tiền.”8
Không những đắp đê ở đồng bằng sông Hồng, mà ở cả các vùng đồng bằng của Thanh Hóa. Sử ghi: “Ất Mão, [Nguyên Phong] năm thứ 5 [1255], (Tống Bảo Hựu năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 2, sai Lưu Miễn bồi đắp đê sông các xứ ở Thanh Hóa.”9. Một hệ thống hành chính tập trung cho đắp đê được tổ chức xuống đến tận địa phương trên toàn vương quốc. Một bộ máy đã vận hành đồng bộ: có sự tham gia của hầu hết các bộ: Công- Binh- Hình- Hộ- Lại- Lễ. Bộ Công lo về vấn đề kĩ thuật. Bộ Hình lo vấn đề chế tài thưởng phạt. Bộ Lại lo vấn đề bổ nhiệm và quản lý các quan Hà đê sứ. Bộ Hộ quản lý vấn đề dân đinh- phu phen tạp dịch và kinh phí vận hành cả dự án khổng lồ. Bộ Lễ lo liệu những vấn đề liên quan đến tín ngưỡng- nghi lễ- tâm linh, các loại đền thờ thần nước, thần biển, bách thần ở địa phương, cho đến việc cúng kiếng những người hy sinh vì nước.
Sự phát động của triều đình khiến toàn bộ đồng bằng sông Hồng khi đó trở thành một đại công trường: nhân dân các vùng thượng châu thổ và trung châu thổ, ngoài việc tự be bờ đắp đập cho làng mình còn thực hiên những cuộc di cư lớn để đắp đê và khai hoang các vùng đất trũng hơn ở hạ châu thổ như Thái Bình, Hải Dương10.
Như thế, việc đắp đê trên toàn vương quốc vừa là một dự án thủy lợi, nhưng đồng thời là một dự án hạ tầng lớn nhất trong lịch sử Đại Việt - tái cấu trúc toàn bộ châu thổ. Đắp đê là một chiến dịch lịch sử và là một bước ngoặt lớn trong quá trình người Việt lấn biển Đông tiến. Huyền thoại Sơn Tinh - Thủy Tinh về cuộc chiến đấu giữa đất và nước vì vậy cũng được hình thành vào thời Trần. Việc đắp đê suốt tuyến của thời Trần đã chia lịch sử châu thổ sông Hồng thành hai giai đoạn: trước và sau khi có đê. Đê đã thay đổi cấu trúc của đồng bằng sông Hồng, từ vùng đồng bằng nửa ngập sang đồng bằng khô trong 12 tháng, để có thể canh tác một năm hai vụ lúa, và như thế hệ thống đê đã tạo nên kiểu đồng bằng sông Hồng như ngày nay mà chúng ta thấy.
Từ thế kỷ XIII trở đi, kỹ thuật đê lan ra toàn châu thổ - từ đê quai vạc ở trung tâm đến các tuyến đê biển lớn thời Lê - Nguyễn, thúc đẩy quá trình lấn biển mở rộng bờ cõi.
Đê mở mang bờ cõi
Việc đắp đê biển đã được triển khai ngay từ thời Trần. Toàn thư ghi đời vua Trần Thuận Tông (1388-1398): “các nhà tôn thất thường sai nô tỳ của mình đắp đê bồi ở bờ biển để ngăn nước mặn, sau hai ba năm, khai khẩn thành ruộng, cho họ lấy lẫn nhau và ở ngay đấy, lập ra nhiều ruộng đất tư trang”11. Nhà Hồ tiếp tục triển khai các chính sách khai hoang, đắp đê lấn biển. Đến thời Lê sơ, triều đình có chính sách đặc biệt về hệ thống đê biển, để đến nay ai cũng biết đến “đê Hồng Đức” kết hợp với các hệ thống đê biển trước đó tạo thành nhiều lớp đê ngăn mặn trải dài hàng chục cây số từ Yên Mô (Ninh Bình) Quần Phương (Nam Định), Thái Bình12.
Việc đắp đê trên toàn vương quốc vừa là một dự án thủy lợi, đồng thời là một dự án hạ tầng lớn nhất trong lịch sử Đại Việt - tái cấu trúc toàn bộ châu thổ.
Đê biển giúp cho tốc độ lấn biển tăng cao, đất mặn dần biến thành ruộng dâu, mỗi năm hàng mấy trăm mẫu, địa thế liên tục thành đồng bằng13. Theo điền dã của chúng tôi, khoảng cách từ cửa biển Đại Ác (thế kỷ 10) tại núi Non Nước (Ninh Bình) ra đến cửa Đáy ngày nay trên dưới 50km. Tức trong vòng 1000 năm qua, trung bình mỗi năm cửa biển này bồi lấp được 50m trên toàn tuyến bờ biển. Theo tính toán của các nhà khoa học, từ đê Hồng Đức (1471) đến đê Hồng Ân (1820) dài 8km, thì trong vòng 369 năm, mỗi năm lấn được hơn 21m ra biển.
Hệ thống đê biển muộn nhất trong thời trung đại là các đê đắp thời Nguyễn, trong đó Nguyễn Công Trứ được coi như là một biểu tượng trị thủy, với công cuộc khai hoang quy mô chưa từng có. Ông cho đắp các con đê biển (đê lấn biển) lớn để ngăn nước mặn, bảo vệ vùng đất bên trong. Chỉ trong một thời gian ngắn, hàng chục nghìn mẫu đất hoang đã được khai phá, biến thành những cánh đồng màu mỡ. Hàng loạt huyện, tổng, làng xã mới được thành lập trên vùng đất mới (như các huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình, Kim Sơn tỉnh Ninh Bình ngày nay). Công cuộc này không chỉ mở rộng diện tích lãnh thổ, tăng sản lượng nông nghiệp cho đất nước mà còn giải quyết việc làm, ổn định đời sống cho hàng vạn người dân, để lại di sản to lớn cho đến tận ngày nay.
Triều Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng và cũng là triều đại có những chính sách quản lý, củng cố đê điều một cách bài bản và chặt chẽ. Triều đình thiết lập một bộ máy quan chức từ trung ương đến địa phương chuyên trách về đê điều, gọi là Hà đê. Ở trung ương, quan Khâm sai Hà đê hoặc Tổng đốc Hà đê là người đứng đầu, chịu trách nhiệm trước triều đình. Ở địa phương, các quan lại phải trực tiếp quản lý và chịu trách nhiệm về các đoạn đê thuộc địa hạt của mình. Triều đình ban hành những quy định rất chặt chẽ và hình phạt nặng nề đối với những vi phạm liên quan đến đê điều. Việc bảo vệ, tu bổ, và hộ đê được coi là nghĩa vụ bắt buộc của dân chúng. Quan lại nếu để xảy ra vỡ đê do quản lý kém có thể bị cách chức, phạt nặng, thậm chí xử tử. Hằng năm, nhất là vào mùa khô, triều đình lại huy động hàng vạn dân phu trên khắp các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ tham gia đắp đê, gia cố và nâng cao các tuyến đê. Đây là một trong những chính sách “sưu dịch” quan trọng nhất của nhà Nguyễn. Chính sách này đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ các vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm. Tuy nhiên, do kỹ thuật còn hạn chế và áp lực thiên tai ngày càng lớn, tình trạng vỡ đê, lụt lội vẫn thường xuyên xảy ra, gây ra những thảm họa cho đời sống nhân dân.

Đến thế kỷ XVII - XVIII, hệ thống đê hoàn chỉnh đã cấu trúc nên văn minh sông Hồng nhưng tính khép kín của nó cũng mang lại nhiều hệ lụy. Cuối thế kỷ XVII, nhiều con sông bị lấp như sông Tử Dương ở Đông Bắc huyện Đông Yên, sông Đại Bi, hoặc cũng có khi sông đổi dòng tạo thành các đầm lầy, như đầm Công Luận, đầm Cự Lon, đầm Giang Cao, vực Sài Thị,…14. Hệ quả nữa của việc đắp đê là khiến cho toàn bộ vùng đồng bằng “chết non”. Đồng bằng đang trong quá trình kiến tạo, cần thêm phù sa, nay bị chặn lưu lượng bồi đắp. Đất trũng đói phù sa, khiến cho rau màu cũng không thể canh tác; ao đầm không có nước chảy mới trở nên bùn lầy tù đọng. Thứ nữa, trong đê thấp hơn lòng đê, đồng bằng thấp hơn đáy sông. Đây cũng là một cái hại nữa của việc đắp đê. Năm 1721, chúa Trịnh buộc phải ban hành quy định bảy điều về đất bãi bồi lở ven sông15. Theo thống kê, vào đầu thế kỷ XIX, Bắc Kỳ có 2400 km đê, với dung tích 156 triệu km3 đất16. Khi dòng chảy lớn, bị ép trong một không gian hẹp, gây ra hiện tượng bên lở bên bồi; dẫn đến nơi thì khốn khổ, nơi thì tranh chấp đất bãi. Nói như Gourou: “châu thổ Bắc Bộ đã chết trong tuổi vị thành niên của nó”.17
Đê - biểu tượng văn hóa và tinh thần
Hệ thống đê điều ở Việt Nam, đặc biệt là ở hai đồng bằng lớn là Bắc Bộ và Nam Bộ, không chỉ là công trình thủy lợi mà còn là biểu tượng của sự tương tác lâu dài giữa con người và thiên nhiên. Vai trò của nó vượt ra ngoài phạm vi kỹ thuật, thấm sâu vào mọi mặt của đời sống kinh tế, văn hóa và tín ngưỡng, trở thành một phần không thể thiếu trong lịch sử và văn hóa dân tộc.
Hệ thống đê điều gắn liền với hệ thống thủy nông, tạo nên một mạng lưới dẫn nước, tiêu nước phức tạp và hiệu quả. Các kênh mương đào dọc theo các tuyến đê không chỉ phục vụ tưới tiêu mà còn trở thành những tuyến giao thông đường thủy quan trọng, thúc đẩy lưu thông hàng hóa, phát triển thương mại giữa các vùng. Con đê cũng là đường giao thông trên bộ quan trọng, kết nối các làng xã, huyện, tỉnh, tạo điều kiện cho giao thương và phát triển kinh tế địa phương. Hình ảnh con đê trong thơ Nguyễn Bính ngoài ý nghĩa biểu tượng cho hồn quê: “Hôm qua em đi tỉnh về, đợi em ở mãi con đê đầu làng”, còn cho thấy chức năng giao thông quan trọng một thời của người đồng bằng châu thổ.
Đánh giá về đê điều không thể chỉ dừng lại ở hiệu quả thủy lợi mà phải thấy được nó như một bộ phận cấu thành nên bản sắc và tâm hồn Việt Nam, phản ánh một lịch sử lâu dài chinh phục và thích nghi với tự nhiên để tồn tại và phát triển.
Việc đắp đê và bảo vệ đê là một công việc khổng lồ, đòi hỏi sự chung sức của cả cộng đồng, thậm chí cả một vùng, một quốc gia. Từ thời phong kiến, các triều đại đã phải huy động “dân phu” toàn quốc để đắp đê. Điều này đã hun đúc nên tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, ý thức cộng đồng sâu sắc của người Việt. Câu ca dao “Nhất quốc tái nông, nhất nông tái đê” (Nhất canh nông, nhì canh đê) cho thấy tầm quan trọng của đê điều trong tư duy và văn hóa dân gian.
Sống trong môi trường thường xuyên đối mặt với thiên tai, người dân Việt Nam tìm đến sự che chở của các thế lực siêu nhiên. Dọc theo các con đê, hàng loạt đền, miếu, đình làng được xây dựng để thờ các vị thần liên quan đến sông nước, như thần Sông, thần Đê, Hà Bá, hay các vị thánh có công trị thủy như Sơn Tinh, Cao Lỗ, Nguyễn Công Trứ, … Lễ hội cầu an, cúng tế thần sông, thần đê trước và sau mùa lũ trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tâm linh. Nghi lễ “hèm” truyền thống trong việc đắp đê cũng phản ánh sự thiêng liêng hóa và nỗi sợ hãi trước sức mạnh của thiên nhiên.
Con đê đi vào thơ ca, nhạc họa, trở thành một biểu tượng văn hóa đầy ám ảnh. Nó là không gian sinh hoạt, là nơi hò hẹn “đê cao tóc xõa lưng trời, em đi gánh nước buông lơi gió chiều”, là nơi chứng kiến những cuộc chia ly trong chiến tranh, là nơi in dấu chân của những người nông dân lam lũ suốt đời gắn bó với đồng ruộng. Hình ảnh con đê kiên cường chống chọi với dòng nước lũ trở thành biểu tượng cho sức chịu đựng, bền bỉ của con người Việt Nam trước thiên tai.
Hệ thống đê điều ở Việt Nam là một di sản văn hóa - kỹ thuật độc đáo, có vai trò đa chiều và phức tạp. Về mặt kinh tế, con đê là lá chắn bảo vệ sự phát triển của dân cư và nền kinh tế lúa nước, kinh tế nông nghiệp. Về mặt văn hóa - tín ngưỡng, nó là cái nôi hình thành tính cộng đồng, là đối tượng của những tín ngưỡng dân gian và nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Đánh giá về đê điều không thể chỉ dừng lại ở hiệu quả thủy lợi mà phải thấy được nó như một bộ phận cấu thành nên bản sắc và tâm hồn Việt Nam, phản ánh một lịch sử lâu dài chinh phục và thích nghi với tự nhiên để tồn tại và phát triển. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu hiện nay, việc quản lý và phát triển hệ thống đê điều một cách bền vững, hài hòa với tự nhiên càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.□
———
Chú thích
1 Con đê là một từ thân thuộc, là một nét hằng xuyên của văn hóa của Việt Nam suốt cả ngàn năm lịch sử. Các từ như “đê”, “đê điều”, “đê quai” đã đi vào tiếng Việt toàn dân. Ngoài ra, ta còn biết đến đê sông, đê biển, đê bối, đê bao, đê quai hay đê quai vạc.
2 Hà Văn Tấn. 1970. “Nghiên cứu thời đại các vua Hùng: hiện trạng và triển vọng.” Quản lý văn vật, 19 (1970).
3 Trần Quốc Vượng. 2011. “Vị thế địa văn hoá - địa chính trị của Hà Nội trong bối cảnh vùng châu thổ sông Hồng và Việt Nam.” Trong Với Thăng Long - Hà Nội, Hà Nội: Nxb Thế giới, tr.19 - 31.
4 Bản thân địa danh “Hải Bối” cũng là một địa danh gợi ý về một loại “đê biển” cổ nào đó?
5 Phan Huy Lê 2007, Lịch sử và văn hóa Việt Nam tiếp cận bộ phận, NXB Giáo dục. tr.761-779.
6 Phan Huy Lê 2007, 766.
7 Đê quai vạc (gọi tắt là đê quai) là loại đê nổi tiếng bậc nhất trong lịch sử, được dịch từ cụm “đỉnh nhĩ đê” (鼎耳堤). Loại đê này chưa thấy xuất hiện trong văn hóa Trung Hoa, và lần đầu xuất hiện trong sử liệu năm 1248 đời vua Trần Thái Tông. Toàn thư ghi: “Tháng 3, lệnh các lộ đắp đê phòng lụt, gọi là đê quai vạc, từ đầu nguồn đến bờ biển, để ngăn nước lũ tràn ngập.” 三月令諸路築堤防水名曰?耳自原頭至海岸以遏洪水漲溢 [Ngô Sĩ Liên 1479, Thái Tông hoàng đế, 15b]. Đại từ điển tiếng Việt ghi: “đê quai. Dt. Đoạn đê đắp vòng phía sau hai đầu nối với đê chính để đề phòng khi đê chính vỡ.” [Nguyễn Như Ý 2008, 507].
8 Ngô Sĩ Liên 1479, Đại Việt sử kí toàn thư, Nội các quan bản. 15b.
9 Ngô Sĩ Liên 1479, 20a
10 Gourou, Pierre. 1936. “Les Paysans du Delta Tonkinois: Étude de Géographie Humaine”. Paris: Publications de l’École Française d’Extrême - Orient, Les Éditions d’Art et d’Histoire.
11 初宗室諸家每令私奴婢於瀕海地築堤堰障鹹水 二三年後開墾成熟互相嫁取居之多立私庄田土, Ngô Sĩ Liên 1479, Thuận Tông hoàng đế, 30b.
12 Nguyễn Hải Kế 1985, “Đê Hồng Đức và công cuộc khai hoang lập làng ở ven biển nam sông Hồng”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 5/1985.
13 Phạm Đình Hổ. 1972. Vũ trung tuỳ bút. Hà Nội: Nxb Văn hoá, tr.120
14 Quốc sử quán triều Nguyễn. 2006. Đại Nam nhất thống chí 大南一統志. Nxb Thuận Hoá., tập 3, tr. 381-390; tập 4, 83-85
15 Quốc sử quán triều Nguyễn.1889. Đại Nam thực lục 大南寔錄. tập 27, 1978, tr.105-197
16 Pasquier, Pierre (1907). L’Annam d’autrefois, essai sur la constitution de l’Annam avant l’intervention française (in French). Société d’éditions géographiques, maritimes et coloniales, 289.
17 Gourou, P. 1940, L’utilisation du sol en Indochine Française, Hartmann.
Bài đăng Tia Sáng số 23/2025
Link nội dung: https://caolonthongminh.vn/vung-dat-ngoai-de-o-dong-bang-song-hong-la-noi-a26746.html